Lược sử tham chiến Solothurn S-18

Tháng 3 năm 1940, với nguồn kinh phí thu được ở Thụy Sĩ cho nỗ lực tăng cường quân bị cho cuộc Chiến tranh Mùa đông, Phần Lan đã mua mười hai khẩu S-18-154 (phiên bản của S-18/100) từ Solothurn, mặc dù trên danh nghĩa được mua từ Quân đội Thụy Sĩ. Súng đến tay Quân đội Phần Lan vào mùa xuân sau khi chiến tranh đã kết thúc, nhưng sau đó được sử dụng trong cuộc Chiến tranh Tiếp nối cho đến tận đầu năm 1944. Vào thập niên 1930, S-18/100 được coi là hiện đại. Tuy nhiên, súng sớm lỗi thời cho vai trò chống tăng khi các xe tăng T-34, KV-1 xuất hiện ồ ạt trên chiến trường. S18-100 cũng được bán cho Đức, Ý, Hungary...

Một phiên bản của S-18/100 là Solothurn-Arsenal do Estonia sản xuất không bản quyền từ 1937 tới 1940. Chỉ có 10 khẩu xuất xưởng trước khi nước này bị Liên Xô chiếm đóng.

Giai đoạn 1940 - 1941 Quân đội Hoa Kỳ xem xét việc trang bị Solothurn S-18/1000. Vũ khí được đặt tên tiêu chuẩn hóa cho mua sắm hạn chế là "Súng tự động T3 20mm". Mùa xuân năm 1941, Solothurn S-18/1000 được thử nghiệm cùng Súng tự động T4.90-cal. Mặc dù không mạnh bằng nhưng S-18/1000 ít cồng kềnh, phức tạp và phù hợp hơn cho quân đội sử dụng hơn T4. Kế hoạch tìm kiếm một đơn đặt hàng 50 khẩu, và sau đó sản xuất vũ khí này ở Mỹ. Tuy nhiên các cuộc đàm phán hợp đồng kéo dài dẫn đến ý tưởng trên bị từ bỏ.[1] S-18/1000 được lực lượng vũ trang các nước Đức, Ý, Tiệp Khắc, Hà Lan, Estonia, Rumani, Hungary, Nam Tư sử dụng.

S18-1100 cũng tìm được đơn đặt hàng của Đức, Ý, Hà Lan và Thụy Sĩ. Đức gọi súng là Pz.B.41(s).